Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Hoa sen


TỔ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - VỚI VIỆC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CĐSP SÓC TRĂNG.





Năm 2003 tổ Lý Luận chính trị được thành lập trực thuộc Ban Giám hiệu trường CĐSP Sóc Trăng. Tổ  đảm nhận công tác giảng dạy các môn khoa học Mác – Lê nin, tư tưởng HCM, giáo dục pháp luật, đạo đức cho tất cả học viên, sinh viên các hệ đào tạo của trường. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của tổ Lý Luận chính trị là tham gia, phối hợp với các bộ phận chức năng trong trường triển khai thực hiện công tác giáo dục chính trị - tư tưởng đạo đức cho sinh viên
Năm học 2010 trường CĐSP Sóc Trăng chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ. Đây là một quy trình đào tạo mềm dẻo, lấy người học làm trung tâm. Theo đó, chương trình đào tạo chế tín chỉ sẽ tạo cho sinh viên tính chủ động cao trong việc lựa chọn kiến thức để trang bị cho bản thân và lựa chọn chương trình học phù hợp với năng lực của mình. Không thể phủ nhận ưu điểm của đào tạo chế tín chỉ, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn cần khắc phục trong đó có vấn đề rèn luyện đạo đức, lối sống, chính trị tư tưởng cho sinh viên. Vì đào tạo tín chỉ việc học tập không tập trung nên để tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho sinh viên có những khó khăn nhất định. Chính vì vậy tổ Lý luận chính trị rất chú trọng quan tâm đến công tác giáo dục chính trị - tư tưởng đạo đức cho sinh viên.
Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng đạo đức trong nhà trường là một bộ phận cấu thành của quá trình tổ chức dạy và học, là bộ phận quan trọng nhất góp phần hình thành nhân cách, phẩm chất lối sống cho sinh viên theo mục tiêu giáo dục.
Giảng viên Lý luận chính trị xác định giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho sinh viên là một hoạt động có tính chất thường xuyên, được thực hiện từ khi sinh viên bước chân vào trường cho đến khi sinh viên ra trường. Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho sinh viên bao gồm nhiều loại hình khác nhau như: Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh hoạt chính trị thường kỳ, hoạt động văn nghệ thể thao theo chủ đề, Olympic Mác - Lênin, các cuộc thi tìm hiểu truyền thống, tham quan thực tế, theo dõi các phương tiện thông tin đại chúng...       Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho sinh viên trong nhà trường cần đạt được những mục tiêu chủ yếu sau:
+ Bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thế giới quan cách mạng và nhân sinh quan đúng đắn cho  sinh viên
+ Tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước nhằm rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị, ý chí cách mạng của sinh viên.Thỏa mãn các nhu cầu tinh thần ngày càng cao nhằm xây dựng một đời sống tinh thần phong phú, đa dạng cho  sinh viên.
+ Sinh viên nhận diện và đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc bản chất cách mạng của đường lối đổi mới của Đảng nhằm khẳng định tính cách mạng và khoa học của hệ tư tưởng Mác Lênin. Góp phần đắc lực vào việc xây dựng con người mới XHCN
Để đạt mục tiêu trên, tổ Lý luận chính trị phối hợp với các đơn vị trong nhà trường làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho sinh viên đạt được những kết quả đáng khích lệ, tình hình tư tưởng sinh viên được đánh giá là tương đối ổn định, có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, nhưng vẫn còn đó những điều chúng ta phải quan tâm, hiện nay trong xu thế hội nhập quốc tế  một bộ phận sinh viên ảnh hưởng lối sống thực dụng, tha hóa về phẩm chất đạo đức chưa sẳn sàng với sự nghiệp trồng người, phai nhạt lý tưởng cách mạng, đoàn viên sinh viên thờ ơ, đứng ngoài phong trào không tham gia sinh hoạt Đoàn, Hội...tình trạng đáng lo ngại là vẫn còn nhiều sinh viên thiếu trung thực trong học tập và thi cử; Một bộ phận chưa có hoài bão, lý tưởng; tình trạng vi phạm nội quy, quy chế trong các kỳ thi vẫn còn; ngại học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh....vì vậy nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức cho sinh viên trường CĐSP Sóc Trăng là vấn đề cấp bách .
Trong những năm qua các giảng viên trong tổ Lý luận chính trị có những phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho sinh viên :
- Giảng viên Lý luận chính trị tuyên truyền những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm trang bị hình thành cho người học thế giới quan khoa học trên cơ sở đó giúp người học có tư duy khoa học , đạo đức cách mạng, năng lực sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, để thực hiện được yêu cầu này một mặt giáo viên LLCT tăng cường tính thực tiễn trong nội dung bài giảng, hướng vào năng lực giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra, mặc khác đổi mới phương pháp giảng dạy, vận dụng những hình thức giảng dạy phù hợp , phát huy vai trò tự học tập, tự du dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của sinh viên.
- Tăng cường công tác giáo dục pháp luật bằng cách nâng cao chất lượng các giờ giảng trên lớp với lồng ghép giáo dục ý thức pháp luật qua hội thi tìm hiêu pháp luật.
- Tăng cường công tác giáo dục ý thức chính trị, đạo đức, tác phong cho sinh viên thông qua việc đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục, tuyên truyền các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của nhà Trường , đẩy mạnh giáo dục ý thức công dân, ý thức vệ sinh môi trường… trong sinh viên toàn Trường; tăng cường giáo dục sinh viên tinh thần vượt khó, đam mê học tập, nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
- Chủ động tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền, phối hợp chặt chẽ giữa các phòng chức năng, Đoàn thanh niên, các khoa, cố vấn học tập…cùng tham gia tích cực vào công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho sinh viên, đặc biệt chú trọng đến giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
-  Giảng viên LLCT nắm bắt những suy nghĩ, nguyện vọng của sinh viên từ đó uốn nắn, định hướng cho sinh viên về lập trường chính trị tư tưởng, có những biện pháp thích hợp cùng với Nhà trường tháo gỡ, định hướng về tư tưởng cho sinh viên một cách kịp thời, có hiệu quả.
Nhìn lại chặng đường  8 năm xây dựng và phát triển,  trên các mặt từ giảng dạy, nghiên cứu  khoa học đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho sinh viên sư phạm, Tổ Lý luận chính trị đã có bước trưởng thành, đạt nhiều thành tựu trong giáo dục tư tưởng chính trị  cho sinh viên sư phạm, tuy còn khiêm tốn nhưng rất có ý nghĩa và rất đáng tự hào. Có được sự trưởng thành đó là do sự phấn đấu rèn luyện của mỗi thành viên trong tổ, một tập thể đoàn kết gắn bó, sự quan tâm lãnh đạo của đảng ủy, Ban giám hiệu cùng sự giúp đỡ của các khoa, phòng trong trường CĐSP Sóc Trăng.



·                      




Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo con đường xã hội chủ nghĩa


Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo
                                  con đường xã hội chủ nghĩa
                                                                                               GS Nguyễn Đức Bình

III- TIẾP TỤC ĐI CON ĐƯỜNG THỜI ĐẠI, KIÊN ĐỊNH, ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO
Ý kiến phủ định thời đại chúng ta vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới là một bước lùi về lập trường chính trị cơ bản, xuất phát. Thực tế nếu vậy thì đất nước ta, Đảng ta từ nay đi con đường nào đây?
1. “Chuyển đổi” sang con đường TBCN chăng? Đã có những ý kiến như thế, nhưng tuyệt đối không thể chấp nhận. Đúng là sau thảm họa “sụp đổ” ở Liên Xô, Đông Âu, CNTB căn bản chiếm lĩnh phần lớn trận địa thế giới. Nhưng vận mệnh và tiền đồ CNTB sẽ như thế nào?
CNTB đã có lịch sử hơn 500 năm. Nó đã có những cống hiến cực kỳ to lớn cho loài người. Nó đã tạo ra những lực lượng sản xuất không những đồ sộ mà còn tinh xảo, tinh vi, những máy móc “thông minh”, những vật liệu, năng lượng kỳ diệu, v.v.. Với đại công nghiệp, nó đã tạo ra thị trường thế giới thay cho tình trạng biệt lập trước đó của các địa phương và dân tộc vốn tự cung tự cấp. Do xâm chiếm thuộc địa, bóp nặn thị trường thế giới, CNTB đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới. Chính CNTB đã có công làm cho lịch sử biến thành lịch sử thế giới. Nhưng đó là thế giới gì?
Trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đó chỉ toàn là thế giới tư bản bao gồm các “chính quốc” và cả hệ thống thuộc địa của CNĐQ. Từ sau Tháng Mười năm 1917 đến năm 1991, thế giới phân chia thành hai hệ thống đối lập. Sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, CNTB chiếm lĩnh đa phần thế giới, bản đồ chính trị thế giới thay đổi căn bản. Lịch sử phải chăng “kết thúc” ở CNTB, tột đỉnh của văn minh loài người? Thực tiễn thế giới “hậu Xô-viết” đã sớm bác bỏ kết luận sai lầm ấy. Có điều cần ghi nhận: ngày nay ít ai còn mang ảo tưởng CNTB sắp chết đến nơi, nhưng phải chăng số người tin tuyệt đối vào sức sống vĩnh hằng của CNTB cũng ngày càng vơi dần? Xem ra đa số đánh giá CNTB còn lâu mới tiêu vong nhưng cuối cùng nhất định nó không tránh khỏi tiêu vong.
Thật ra, sức sống còn lại của CNTB mà đôi khi có người choáng ngợp, một phần do nó vốn chưa thật cạn kiệt, còn một phần rất quan trọng là do những yếu kém, sai lầm dẫn đến sụp đổ cay đắng một mảng lớn CNXH hiện thực. Một sự thật nữa cũng đáng lưu ý là tâm trạng hoan hỷ của phương Tây trước sự sụp đổ của Liên Xô chỉ được nhất thời; sau đó, khi không còn địch thủ đáng gờm phải đối mặt, thì những đầu óc ít nhiều tỉnh táo, sáng suốt trong các học giả và chính khách phương Tây bình tĩnh quay về nhìn lại bản thân CNTB, đã kịp thời cảnh báo: coi chừng nguy cơ đe dọa vận mệnh CNTB xem ra không phải từ phía CNXH, từ Liên Xô, mà chính từ ngay trong lòng CNTB. Rõ ràng CNTB cũng đang “tự phản tỉnh”, “tự phê phán”, đang thấy khó mà tự duy trì nếu không có phép gì mầu nhiệm hơn những phép đã dùng gần như cạn kiệt để tự điều chỉnh, thích nghi. Những khái niệm “xã hội hậu tư bản”, hay “CNTB mới”, “CNTB nhân dân”, hay “CNTB của những người lao động”, ... mà một số học giả phương Tây ưa dùng nói lên hai mặt. Nó vừa là một sự ngụy biện rằng CNTB đã không còn là CNTB nữa vì nó không còn bóc lột; vừa là - về khách quan - mặc nhiên thừa nhận chế độ tư bản đích thực, truyền thống như bản thân nó, đã hết lý do tồn tại, đã hết khả năng tự biện minh; có nghĩa là ngay các nhà tư tưởng tư sản cũng đã mất niềm tin ở chính CNTB, đã mặc nhiên và gián tiếp phải nói đến một chế độ mới đang gõ cửa CNTB. Trong khi đó, một số người trước đây, sau khi Liên Xô sụp đổ, niềm tin đối với CNXH ở họ bị lung lay dữ, thì từ thực tiễn thế giới hơn 10 năm qua Mỹ hành động ngang ngược với vị thế siêu cường duy nhất, họ có phần suy nghĩ lại rằng CNXH ở Liên Xô trước đây dù có khuyết tật nặng nề thế nào đi nữa, nhưng thảm họa nhãn tiền ngày nay là không còn Liên Xô, Mỹ đang làm mưa làm gió trên thế giới.
2. Vậy là thế giới đổi thay nhưng thời đại không thay đổi, Đảng ta, nhân dân ta, đất nước ta, nhất quyết tiếp tục đi con đường thời đại - con đường XHCN.
Cần nhận rõ thời đại mặc dù không thay đổi nhưng thời đại lịch sử lớn được chia ra những thời kỳ hay gọi là thời đại nhỏ. Chẳng hạn, về thời đại tư sản, Lê-nin lấy ví dụ ở Pháp có mấy thời kỳ: thời kỳ đầu từ cách mạng 1789 đến chiến tranh Pháp - Phổ 1870-1871; thời kỳ thứ hai từ 1871 đến chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918; thời kỳ thứ ba từ thế chiến thứ nhất trở về sau...
Về thời đại lớn quá độ từ CNTB lên CNXH thì sao? Cho đến nay có thể chia thành ba thời kỳ kể từ cột mốc Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Thời kỳ thứ nhất (từ 1917 đến 1945) là thời kỳ cách mạng XHCN thắng lợi đầu tiên ở một nước; chế độ XHCN được xây dựng và từng bước củng cố; phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ; chiến thắng của loài người tiến bộ đối với chủ nghĩa phát-xít. Thời kỳ thứ hai (1945-1991) là thời kỳ CNXH trở thành hệ thống thế giới; phong trào giải phóng dân tộc phát triển thành cao trào; ba dòng thác cách mạng cùng dâng cao; đồng thời cũng dần dần xuất hiện và tích tụ những khó khăn và sai lầm, thậm chí sai lầm nghiêm trọng khiến CNXH lâm vào khủng hoảng kéo dài, chế độ XHCN sụp đổ ở Đông Âu rồi Liên Xô. Thời kỳ thứ ba (từ 1991 về sau) là thời kỳ các nước XHCN còn lại và phong trào cộng sản quốc tế khắc phục khủng hoảng, thoái trào để từng bước phục hồi, cải cách, đổi mới và phát triển.
Nắm vững thời đại, do vậy, không thể dừng lại ở bản chất thời đại nói chung mà trong mỗi thời điểm lịch sử cần nhận thật rõ cách mạng đang đứng ở đâu, ở thời kỳ nào, với những đặc điểm gì? Mặt khác, không thể chỉ thấy hiện thực mà không thấy triển vọng, không thể chỉ thấy trước mắt mà không thấy xu thế cơ bản, lâu dài, không thể chỉ thấy cái riêng mà không thấy cái chung. Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ của Đảng ta năm 1991 đã sáng suốt chỉ ra (và được Đại hội VIII, Đại hội IX khẳng định lại) một cách nhìn, một tư tưởng cơ bản rất đúng đắn, sâu sắc và toàn diện như sau: “Chủ nghĩa xã hội hiện nay đang đứng trước những khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa CNTB với CNXH vẫn tồn tại, nhưng hình thái biểu hiện đã khác trước nhiều. Đó không còn là mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới đối lập, nhưng cũng không phải sau khi CNXH bị sập đổ một mảng lớn thì mâu thuẫn đó không còn. Ngoài một số nước XHCN còn lại, khá có trọng lượng, phải kể đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cả đến phong trào đấu tranh chống CNĐQ, vì hòa bình, vì độc lập và chủ quyền dân tộc, vì dân chủ và tiến bộ xã hội, những lực lượng này là đồng minh tự nhiên của CNXH.
Hơn nữa, cần phải tính đến những yếu tố mầm mống đang tồn tại trong lòng CNTB mà xu hướng khách quan của chúng là ngày càng lớn lên theo chiều phủ định những quan hệ TBCN. Sự phát triển của xã hội loài người, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, suy đến cùng, luôn được thực hiện trên cơ sở phát triển nền sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất của xã hội đó. Ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang sinh ra những xu hướng phát triển, về khách quan, mang tính đối kháng với quan hệ sản xuất TBCN, đồng thời tự phát tạo ra những cơ sở và tiền đề dẫn tới chế độ mới - CNXH, tất nhiên chế độ mới không thể ra đời mà không thông qua những chuyển biến cách mạng trong chế độ chính trị dưới hình thức này hay hình thức khác.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở giai đoạn xã hội hóa ngày càng cao hiện nay đang thúc đẩy những quá trình tập trung, sáp nhập, liên kết ngày càng cao không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên quy mô thế giới, không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả sở hữu “CNTB tập đoàn” của các nhà tư bản kếch sù.
Rõ ràng cái vỏ tư nhân TBCN đã quá chật so với nội dung sức sản xuất cực kỳ đồ sộ mà nó chứa đựng; thậm chí quá chật cả với hình thức sở hữu tư bản độc quyền cá nhân.
Từ tính chất xã hội hóa cao của sản xuất và lực lượng sản xuất, cũng xuất hiện trong các nước tư bản phát triển ngày càng nhiều nhân tố mầm mống những quan hệ xã hội tương lai, chẳng hạn các công ty cổ phần trong đó có sự tham gia của những người lao động vào sở hữu và quản lý. Hình thức công ty cổ phần có loại thuộc những “nhà tư bản tập thể” (Ăng-ghen) hoặc “trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội... đối lập với tư bản tư nhân”(1); có loại “nửa nọ nửa kia”, một nửa thuộc các chủ tư sản vừa và nhỏ, một nửa cổ đông là những người lao động. “Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa cũng như những nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể”(2). Lại có những doanh nghiệp tự quản thuộc sở hữu của những người lao động, ví dụ: ở Mỹ có hơn 11 triệu người lao động đang là đồng sở hữu những doanh nghiệp này; ở Thái Lan và nhiều nước tư bản, hợp tác xã của những người lao động rất phổ biến trong nông nghiệp, trong thương nghiệp, trong vận tải, v.v.. Bộ Nông nghiệp Thái Lan có tên là Bộ Nông nghiệp, phát triển nông thôn và hợp tác xã. Vậy là, tình hình đúng như hình ảnh mà Lê-nin từng hình dung: ngày nay thì CNXH nhìn sang chúng ta từ tất cả các khung cửa của CNTB hiện đại; CNXH đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn, trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở CNTB hiện đại ấy.
Cần đánh giá thế nào về CNTB toàn cầu hóa? Có người cho rằng CNTB ở giai đoạn hiện nay có sức sống hơn bao giờ hết. Nhận định ấy nhiều lắm chỉ đúng một nửa, còn một nửa không đúng, lại là cái nửa thuộc bản chất sự vật và quá trình. Toàn cầu hóa khi vai trò chủ đạo thuộc về CNTB thì về bản chất là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên kết, vừa đấu tranh, trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước lớn TBCN, với một bên là chủ quyền và lợi ích các quốc gia dân tộc. Đó là mâu thuẫn ngay giữa các nước TBCN, giữa các tập đoàn tư bản với nhau. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng dẫn tới phân cực giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước, giữa trung tâm với ngoại vi, giữa bắc với nam, phân cực giàu nghèo ngày càng tăng ngay trong lòng các nước tư bản phát triển. Đó là mâu thuẫn giữa kinh tế tăng trưởng với văn hóa, đạo đức, xã hội thì suy đồi. Đó là mâu thuẫn ngay giữa hợp tác với đấu tranh. Đã hội nhập thì có hai mặt, vừa cạnh tranh quyết liệt mà vẫn phải hợp tác, bản thân hợp tác cũng lại là đấu tranh và kết quả của đấu tranh. Một mâu thuẫn nữa đặc trưng cho các nước như Việt Nam, Trung Quốc, ... ngoài độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, còn có con đường XHCN mâu thuẫn với toàn cầu hóa do CNTB khống chế, với sức ép đi con đường TBCN bằng tự do hóa, tư nhân hóa kinh tế, truyền bá tư tưởng văn hóa đồi bại, từ đó chuyển hóa dần về chế độ chính trị. Cùng với những mâu thuẫn xã hội nói trên, ngày càng nổi lên một mâu thuẫn lớn giữa xã hội với tự nhiên, biểu hiện ở hiểm họa ngày càng tăng đối với đời sống con người do ô nhiễm và tàn phá môi trường sống, kết quả của cuộc chạy đua vì lợi nhuận mà thủ phạm chính là các lực lượng thị trường TBCN.
Toàn cầu hóa kinh tế xét trên tầm nhìn rộng và lâu dài, xét về xu thế tương lai mà nó mở ra, là một nhân tố quan trọng của tiến bộ lịch sử, bởi lịch sử xã hội loài người, xét cho cùng, là từ kỹ thuật này tiến lên kỹ thuật khác, từ sức sản xuất thấp đến sức sản xuất cao, đưa đến những nấc thang cao hơn của tiến bộ xã hội và khiến “lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới” (C. Mác) mà đỉnh cao sẽ là xã hội cộng sản văn minh. Thế nhưng, toàn cầu hóa hiện nay đang do CNTB chủ đạo là một quá trình đầy rẫy những mâu thuẫn như đã nói. Trong những mâu thuẫn đó, nổi lên trước hết là mâu thuẫn giữa lợi ích cơ bản thuộc CNTB độc quyền với chủ quyền và lợi ích các quốc gia dân tộc. Không thấy mâu thuẫn này khi hội nhập, dễ đi đến hòa tan, đưa nền kinh tế quốc gia, thậm chí cả số phận dân tộc trôi nổi trên thị trường toàn cầu đầy rủi ro, bất trắc. Biện chứng khách quan ở đây là toàn cầu hóa TBCN chẳng những không xóa đi và không thể xóa đi, trái lại làm nổi hơn lên chủ quyền và lợi ích quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc.
Toàn cầu hóa hiện nay còn chứa đựng sâu sắc mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp tư bản độc quyền xuyên quốc gia với giai cấp công nhân và toàn thể những người lao động bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới, ngay tại các nước tư bản phát triển. Nếu không thấy mâu thuẫn này mà chỉ nói, chỉ nhấn mạnh lợi ích dân tộc (dẫu rằng hiện nay nổi bật hàng đầu là lợi ích quốc gia dân tộc) thì dễ sa vào lập trường dân tộc chủ nghĩa tư sản, ĐQCN, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô-vanh, mức thấp là ích kỷ, thực dụng, vụ lợi trên những toan tính chính trị và chiến lược đối ngoại và thật ra những lập trường như vậy cũng không hiểu thấu được lợi ích chân chính của dân tộc mình. Nếu chủ nghĩa dân tộc đi vào cạnh tranh sinh tồn khốc liệt mạnh được, yếu thua thì sẽ đẩy thế giới đi vào tranh chấp nhau triền miên, không dứt; nếu cạnh tranh kinh tế không thể dàn xếp ổn thỏa trong điều kiện nào đó, nhất là khi dính đến cả lợi ích chính trị, thì có thể dẫn đến những va chạm, bùng nổ, xung đột hoặc chiến tranh cục bộ, thậm chí không loại trừ chiến tranh thế giới có giới hạn, mặc dù hiểm họa này hiện nay ít có khả năng xảy ra.
Tóm lại, về lý thuyết mà nói, CNTB giai đoạn toàn cầu hóa tuy chừng mực nào đó có thêm sức sống, nhưng dứt khoát không thể kéo dài mãi vận mệnh của nó như có người nghĩ; trái lại, càng tích lũy thêm nhiều mâu thuẫn trên phạm vi toàn cầu cho tới khi mâu thuẫn tới đỉnh điểm, phép biện chứng “vật cực tắc phản” tất sẽ đưa CNTB đến chỗ tan rã. Có thể đến ngày nào đó, giả thuyết của Mác về khả năng thắng lợi đồng thời của CNXH trong hàng loạt nước sẽ có cơ hội dễ hình dung hơn. Đồng thời, với hệ thống thế giới toàn cầu hóa phát triển rất không đều và đầy rẫy những bất bình đẳng, bất công và bất trắc, lý thuyết về khả năng bùng nổ trước hết ở những “khâu yếu trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc” càng rất có cơ sở, ví như tình hình phái “tả” đang nổi lên ở một số nước Mỹ la-tinh, và chắc chắn sẽ còn diễn ra nay chỗ này mai chỗ khác.
Tác giả Jan Puhl nổi tiếng viết trong tạp chí Đức Die Woche ngày 28-1-2000: “Trong vòng 20 năm qua, sự bần hàn và sự thừa thãi luôn đồng hành. Sự chênh lệch ngày càng tăng có thể trở thành ngòi nổ đối với nền dân chủ (= chế độ tư bản) trên phạm vi toàn cầu”. Ông ta còn viết “Quá trình toàn cầu hóa đã hợp nhất những người vô sản trên toàn thế giới vào cuộc đấu tranh mang tính toàn cầu”(3).
Còn Chủ tịch Câu lạc bộ Rôma là ngài Ricardo Diez Hochleiter (người Tây Ban Nha) thì viết: “Nghèo đói không chỉ là một vấn đề nghiêm trọng đối với những người bị đụng chạm trực tiếp. Khi tình trạng bần cùng hóa vẫn tiếp diễn như hiện nay thì có nguy cơ sẽ nổ ra một cuộc cách mạng có thể đụng chạm đến các nước giàu có. Khi khoảng cách giàu nghèo tiếp tục mở rộng thì một ngày nào đó có thể sẽ xuất hiện một ông Mác và một ông Lê-nin mới với khẩu hiệu “Những người nghèo trên toàn thế giới hãy liên kết lại”(4).
3. Tin tưởng không gì lay chuyển nổi vào “quy luật tiến hóa của lịch sử” mà Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1991 đã khẳng định, chúng ta càng vững tin vào con đường độc lập dân tộc và CNXH mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn. Kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo và thông minh tính kiên định về nguyên tắc và mục tiêu không thay đổi với đầu óc uyển chuyển, tinh thần và khả năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo - đó là bí quyết thành công trong công cuộc tiếp tục phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta cho đến đích cuối cùng.
Có thể hình dung thế nào mô hình về sự quá độ lên CNXH ở nước ta? Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã vạch rõ những điểm căn cốt nhất trong bức tranh tổng thể, rồi đây sẽ được nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm. Trong bài Xây dựng Đảng ta thật sự vững mạnh vào dịp góp ý kiến với Đại hội X (báo Nhân Dân, ngày 23-2-2006), tác giả bài này có thử đề xuất mấy ý kiến về mô hình kinh tế nói riêng như sau:
“Đó là nền kinh tế nhiều thành phần cùng phát triển trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; một nền kinh tế thị trường có kế hoạch; có sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức thích hợp; đồng thời thông qua chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ra sức tranh thủ những thành quả của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức, nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân”.
Một nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, không nghi ngờ gì nữa, đó là đặc trưng chủ yếu có tính quy luật của kết cấu kinh tế thời kỳ quá độ từ CNTB hay từ một nước kém phát triển tiến lên CNXH. Thế nhưng, có đồng chí không muốn nói “kinh tế nhiều thành phần” mà chỉ nói “đa sở hữu, nhiều hình thức sản xuất, kinh doanh”. Thật ra, không có gì mâu thuẫn giữa mấy khái niệm đó, vấn đề chỉ là tùy trường hợp đề cập; có điều nếu vì dị ứng với khái niệm “thành phần” mà tránh nói thì e quên mất ở đây là thực tiễn, là khoa học. Bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH không thể không phân tích rõ điểm xuất phát của nền kinh tế trên quan điểm kinh tế - chính trị, giai cấp - xã hội. Nếu không rõ đi từ đâu thì làm sao vạch được chính xác con đường đi tới đích! Nếu chỉ trên quan điểm một nền kinh tế hỗn hợp đơn thuần, không phân biệt tính chất xã hội, giai cấp, thì đường lối kinh tế nhiều lắm chỉ còn là tăng trưởng và tăng trưởng thuần túy về sản xuất, về GDP? Vậy định hướng XHCN chỗ nào?
Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cũng có ý kiến không đồng tình. Ở đây lại càng phải hỏi định hướng XHCN thế nào nếu không có vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước? Phải chăng cái lý thuyết tự do mới triệt để nhất coi “thị trường là tất cả, nhà nước là con số không” đã phải rút xuống thành “nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”?. Ngay thực tiễn kinh tế TBCN dù tự do mấy cũng không thoát được vai trò can thiệp nhất định của nhà nước. Có một thời kinh tế nhà nước TBCN rất thịnh hành, ngày nay nhiều nước tư bản phát triển vẫn giữ một bộ phận nào đó kinh tế nhà nước, còn giai cấp những người lao động làm thuê thì kiên quyết đấu tranh chống tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Trong tự do hóa thương mại hiện nay ta càng thấy CNTB toàn cầu hóa đâu chỉ biết có thị trường và thị trường mà không có vai trò nhà nước trong việc sử dụng công cụ WTO và trong việc bảo hộ mậu dịch, dựng lên các rào cản đối với hàng hóa nước ngoài.
Không một giai cấp cầm quyền nào lại không chăm lo xây dựng và bảo hộ cơ sở kinh tế của nó. Với nhà nước XHCN lại càng phải như vậy vì kinh tế XHCN, CNXH nói chung, không thể hình thành một cách tự phát mà phải được xây dựng lên một cách có ý thức. Đương nhiên, phải tránh nhận thức phiến diện và chủ quan duy ý chí về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà ở đây không bàn luận đến.
Khuyết tật nghiêm trọng trong mô hình kinh tế cũ là cự tuyệt sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường. Xtalin sinh thời có phân chia hai khu vực sản xuất: khu vực A (sản xuất tư liệu sản xuất) thì phi hàng hóa, phi thị trường, còn khu vực B (sản xuất tư liệu tiêu dùng) thì có sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa. Lý luận vậy, nhưng trong thực tế, tất cả gần như phi hàng hóa, phi thị trường như nhau.
Cự tuyệt sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường đã làm triệt tiêu động lực kích thích sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Đổi mới của Việt Nam bắt đầu chính từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường với sự khẳng định mạnh mẽ: có thể bỏ qua chế độ tư bản nhưng dứt khoát không thể bỏ qua sản xuất hàng hóa.
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” lại là một bước tiến mới trong quá trình tìm tòi lý luận đổi mới kinh tế của Đảng ta. Có điều cho đến nay xem ra cách nói đó là “mô hình kinh tế tổng quát” (Đại hội IX) của nước ta đi lên CNXH thì e không đầy đủ, thậm chí vì quá ngắn gọn nên có thể dẫn đến những ngộ nhận, chẳng hạn hiểu là “chủ nghĩa xã hội thị trường” v.v.. Đó là chưa nói từ khái niệm về mô hình kinh tế tổng quát giải thích thế nào về định hướng XHCN, nội dung định hướng XHCN ở đâu (trong bản thân công thức ấy). Vì lẽ đó tác giả bài này mạnh dạn đề xuất một công thức mới (đã dẫn ra như trên) mong làm rõ hơn nội dung công thức quá rút gọn “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trong mô hình kinh tế mới, sau đặc trưng đầu tiên là “kinh tế nhiều thành phần cùng phát triển, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo”, chúng tôi nhấn mạnh đó là “nền kinh tế thị trường có kế hoạch”. Kinh tế thị trường không phải tự do (theo kiểu tư sản) mà có kế hoạch. Nghĩa là, có sự quản lý của Nhà nước chứ không phải thả nổi cho “bàn tay vô hình” điều khiển tất cả nền kinh tế theo nguyên tắc thị trường kể từ phân phối tài nguyên, các nguồn lực, cho đến xuất nhập khẩu... Hiện nay người nông dân Nam Bộ và Tây Nguyên thường kêu than một tình cảnh thật oái oăm trong sản xuất là khi “được mùa thì mất giá”, khi “được giá lại mất mùa”, và để chạy theo với thị trường thì năm nay trồng cây này, năm sau chặt, trồng cây khác, đến khổ.
Cơ chế cũ kế hoạch hóa tập trung, bài xích thị trường là sai. Đã có lúc điều chỉnh theo hướng kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy kế hoạch làm chính. Nay nên đổi mới thế nào trong quan hệ giữa kế hoạch với thị trường, điều này xem ra rất cần phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và lý luận để làm sáng rõ. Có điều, không nên vì sai lầm trước đây mà thành kiến với kế hoạch hóa; ngay nhà nước tư bản cũng không phải không có kế hoạch kinh tế. Đương nhiên, họ làm kế hoạch vì lợi ích các tập đoàn tư bản. Còn kế hoạch nhà nước dưới chế độ ta vì dân giàu, nước mạnh, lợi ích nhân dân. Sẽ không đúng nếu cho rằng hễ nói kế hoạch là phạm chủ quan duy ý chí. Vấn đề là phải kế hoạch hóa trên cơ sở phản ánh đúng quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật của thị trường.
Mô hình kinh tế nước ta quá độ lên CNXH tất yếu bao hàm trong nó một yếu tố có tính chiến lược bao trùm là sử dụng CNTB nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước có thời bị gạt khỏi kết cấu các thành phần kinh tế. Nhưng thực tế đang tồn tại một khu vực kinh tế tư bản nhà nước. Và, dù nói ra hay không nói ra, thừa nhận hay không thừa nhận chính thức, thực tế kinh tế Việt Nam (cả Trung Quốc) đã, đang thực hành và tiếp tục thực hành rộng rãi tư tưởng của Lê-nin về CNTB nhà nước. Sự tình không thể khác. Đó là một tất yếu kinh tế phổ biến đối với các nước kém phát triển tiến lên CNXH. Các nước này chưa qua CNTB như một hình thái kinh tế thống trị. Về lịch sử mà nói, không có CNTB tạo tiền đề, thì không thể đi lên CNXH. Những nước như nước ta đau khổ vì CNTB thì ít mà vì thiếu CNTB thì nhiều, đau khổ không những vì ách phong kiến còn đè nặng, mà còn vì thiếu những tiền đề vật chất - kỹ thuật cần thiết làm cơ sở tiến lên CNXH, để lại gánh nặng lớn cho thời kỳ quá độ.
Lê-nin chỉ ra cho nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười: “Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”(5). Với các nước kém phát triển, Lê-nin chỉ rõ: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”(6).
Trong thực tế nền kinh tế nước ta, về khách quan đang tồn tại CNTB nhà nước dưới hàng loạt hình thức đa dạng: các loại hình công ty cổ phần có vốn nhà nước chi phối hay không chi phối; các hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư trong nước, ngoài nước; các loại hình hợp tác xã trong tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, trong thương nghiệp, tín dụng, nông nghiệp, dịch vụ, ... mà Lê-nin gọi đó là CNTB nhà nước hợp tác xã (theo nghĩa đó là những hình thức kinh tế mà nhà nước vô sản dễ dàng kiểm kê kiểm soát và định hướng lên CNXH). Sử dụng tư bản nước ngoài dưới các hình thức FDI, liên doanh, liên kết, đặc biệt tập trung trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Thông qua các hình thức này giúp thu hút vốn, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý - những nhu cầu hết sức cần thiết đối với ta. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới, tham gia WTO - hoàn cảnh này khác hẳn thời Lê-nin, không gian mở ra hết sức rộng cho việc vận dụng CNTB nhà nước, cho phép nước ta “dùng” cả tư bản thế giới vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Song, cũng cần nhớ rằng không nên nhận thức vấn đề này quá đơn giản, quá lạc quan, một chiều vì bên cạnh thời cơ thuận lợi, thách thức cũng hết sức lớn bởi trong sâu xa, đây là cả một cuộc đấu tranh gay go: chúng ta tranh thủ, sử dụng được CNTB để xây dựng CNXH hay ngược lại chính CNTB nó chuyển hóa được chúng ta? Điều cần thiết hiện nay là chính thức thừa nhận CNTB nhà nước như một thành phần quan trọng trong kết cấu kinh tế để sử dụng, phát triển, quản lý, kiểm soát và điều tiết nó một cách thật có ý thức vì mục đích CNXH, không để nó tự phát đi con đường TBCN.
Để tránh những khía cạnh tế nhị nào đó có thể có về tâm lý, nước ta không nhất thiết phải tuyên bố và tuyên truyền rộng rãi về CNTB nhà nước. Nhưng, trong nhận thức lý luận chính trị và tư tưởng đường lối, chính sách, đặc biệt trong Đảng, trong cán bộ lãnh đạo và quản lý, phải được trang bị vững chắc tư tưởng Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng ta về CNTB nhà nước dưới chế độ nhà nước XHCN và vai trò lãnh đạo thuộc về giai cấp công nhân. Mặt khác, cũng có thể nghĩ đến khả năng: một khi đường lối chính sách rõ ràng, minh bạch và được giải thích kỹ càng thì ngay các nhà tư sản yêu nước cũng có thể yên tâm, phấn khởi đóng góp vào sự nghiệp chung của dân tộc, đi vào con đường CNTB nhà nước. Nhà nước ta giúp họ làm giàu theo con đường đó.
Quá độ lên CNXH, cái thiếu lớn nhất của nước ta là lực lượng sản xuất công nghiệp. Trước đây, ta có Liên Xô và khối SEV giúp đỡ, nay tình hình đã khác, ta có thể khai thác mặt có lợi trong toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, trong gia nhập WTO để tranh thủ lực lượng sản xuất mới, hiện đại. Tất nhiên, vươn ra làm ăn với thế giới không dễ, chớ quá lạc quan, ảo tưởng. Chúng ta còn phải học tập nhiều, phải biết cách làm khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo, đồng thời khi cần, phải nhớ lời Lê-nin “đi với sói phải biết gào thét như sói nhưng không bao giờ tự biến mình thành sói”. Đặc biệt phải có nội lực, phải tạo ra cho được nội lực cạnh tranh đủ mạnh - nội lực vật chất, kinh tế, nội lực quản lý, nội lực trí tuệ, chính trị và tinh thần - rốt cuộc nội lực là chính kèm theo bản lĩnh chính trị vững vàng để có kinh tế độc lập tự chủ, đó là điều kiện cơ bản để biến ngoại lực thành sức mạnh bên trong.
Hội nhập toàn cầu, vào WTO tự nó không là mục đích mà chỉ là phương tiện, điều kiện, con đường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nhất là cốt để tranh thủ lực lượng sản xuất và công nghệ hiện đại, những thành tựu mới của kinh tế tri thức nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH - nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH. 

CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH ?



Chủ nghĩa xã hội là gì và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ấy ở Việt Nam phải như thế nào? Có thể nói, đó là vấn đề trung tâm của công tác lý luận của chúng ta trong suốt mấy chục năm qua.
Mác-Ăng ghen nêu lên những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội của giải phóng và phát triển, của dân chủ và công bằng xã hội; một chế dộ do nhân dân lao động làm chủ, không còn bóc lột, áp bức. tuy là nền móng rất quan trọng đối với nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội nhưng đó mới chỉ là những khái quát chung nhất, nhất thiết phải được cụ thể hoá ''thành xương, thành thịt'' trên từng mảnh đất hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã có công lao to lớn: nêu lên hàng loạt nhận thức sinh động về chủ nghĩa xã hội. Theo Người, xây dựng chủ nghĩaxã hội là xây dựng một chế độ xã hội sao cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ; là làm cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở, ai ai cũng được học hành tiến bộ, được chăm sóc sức khoẻ, được tự do đi lại, được hưởng quyền dân chủ, có đời sống tươi vui, hạnh phúc, đấy là mục đích của mọi chính sách của Đảng
và chính phủ
Qua 20 năm đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Cho đến nay, Ðảng ta đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Ðảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ
Nghĩa MLN và TTHCM về CNXH
Nói tới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mỗi chúng ta đều thấy hai câu hỏi lớn đặt ra. Ðó là: Chủ nghĩa xã hội
là gì? Và xây dựng CNXH như thế nào?
Căn cứ vào tình hình trong nước và quốc tế, từ cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển) trong đó khẳng định xã hội xã hội mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Hiện nay việc xác định đúng đắn, chính xác con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một trong những vấn đề rất hệ trọng của Đảng và nhân dân ta.
Trên cơ sở vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thực tiễn thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và nhất là từ thực tiễn những năm đầu tiến hành đổi mới, tiếp thu chọn lọc tinh hoa nhân loại, Qua tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Để thực hiện các mục tiêu trên (mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI) toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.. Đại hội XI khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về nhân tố con người; phát triển con người giữ vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đảng ta cũng nhận thức rõ hơn về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, ở từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Tóm lại nhận thức mới của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán đó sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã bắt đầu hình thành và sẽ từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Khái quát lại, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những bổ sung, phát triển này đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, chính xác.